CÁC NGUYÊN LÍ TỔNG QUAN

Định nghĩa:

– Bệnh lí động mạch vành (CAD) đề cập đến tình trạng hẹp lòng động mạch vành, thường dơ xơ vữa động mạch. CAD là yếu tố đóng góp hàng đầu trong bệnh tim thiếu máu (IHD). IHD bao gồm đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim (MI) và cơ thiếu máu cơ tim thầm lặng

– Bệnh tim mạch (CVD) bào gồm IHD, bệnh lí cơ tim, suy tim (HF), loạn nhịp tim, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não (CVA), bệnh động mạch chủ, bệnh mạch máu ngoại vi (PVD), bệnh van tim và bệnh tim bẩm sinh.

– Đau thắt ngực ổn định được định nghĩa là các triệu chứng đau thắt ngực hoặc các triệu chứng tương đương đau thắt ngực gây ra do một mức độ gắng sức nhất định và giảm bớt khi nghỉ ngơi.

– Guidelines của AHA/ACC cung cấp một tổng quan về IHD ổn định.

Dịch tễ học:

– Ở Hoa Kỳ, IHD là nguyên nhân gây ra một trong mỗi 6 ca tử vong.

– Nguy cơ mắc IHD suốt đời ở tuổi 40 là ½ đối với nam và 1/3 đối với nữ.

– Có trên 15 triệu người Mĩ mắc IHD, 50% trong số đó có cơn đau thắt ngực ổn định.

– CVD trở thành một nguyên nhân quan trọng gây ra tử vong trên toàn thế giới, chiếm gần 30% tổng số ca tử vong, và có dấu hiệu tăng ở những quốc gia đang phát triển.

– Chết do CVD tiếp tục giảm ở một phần lớn bệnh nhân nhờ tuân thủ theo guidelines điều trị.

Nguyên nhân: CAD thường xuyên gặp nhất là do sự kết tập của mảng xơ vữa trong lòng mạch. Những nguyên nhân khác bao gồm các bất thường bẩm sinh mạch vành, cầu nối cơ tim, viêm mạch máu và xạ trị trước đây.

Sinh lí bệnh:

– Đau thắt ngực ổn định do tắc nghẽn tiến triển động mạch vành thượng tâm mạc có thể thấy được trên chụp mạch vành hay ít gặp hơn là tắc nghẽn các vi mạch, gây ra sự mất cân bằng giữa nhu cầu oxy của cơ tim và khả năng cung cấp oxy.

– Xơ vữa động mạch là một quá trình viêm, bắt đầu bởi sự kết tập lipid trong lớp nội mô động mạch theo sau bởi sự huy động của các tế bào viêm và tăng cường các tế bào cơ trơn để hình thành nên một khối xơ vữa.

+ Các tổn thương mạch vành chịu trách nhiệm cho đau thắt ngực ổn định khác so với các mảng xơ vữa dễ bị tổn thương liên quan đến nhồi máu cơ tim cấp. Tổn thương của đau thắt ngực ổn định là cố định và ít có khuynh hướng nứt ra, vì thế gây ra các triệu chứng dễ dự đoán hơn.

+ Tất cả các tổn thương mạch vành đều lệch tâm và không thay đổi vòng tròn lòng động mạch một cách giống nhau.

+ Tổn thương động mạch vành thượng tâm mạc gây ra dưới 40% hẹp lòng thường không làm giảm lưu lượng vành đáng kể.

+ Tổn thương trung bình trên hình ảnh chụp mạch (40-70%) có thể ảnh hưởng đến lưu lượng và thường xuyên cho thấy trên hình ảnh chụp mạch vành (hình ảnh lệch tâm của bệnh mạch vành).

Yếu tố nguy cơ:

– Trong các trường hợp IHD, trên 90% có thể được đóng góp bởi do tăng ít nhất một yếu tố nguy cơ chính.

– Đánh giá các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch thông thường bao gồm:

+ Tuổi

+ Huyết áp (BP)

+ Đường máu (chú ý: tiểu đường được xem như là một yếu tố tương đương IHD).

+ Lipid máu (lipoprotein trọng lượng phân tử thấp (LDL), lipoprotein trọng lượng phân tử cao (HDL), triglycerides); LDL trực tiếp đối với các mẫu không lấy khi đói hoặc triglycerides quá cao.

+ Hút thuốc lá (chú ý: ngừng thuốc lá hồi phục nguy cơ IHD như người không hút thuốc lá trong vòng xấp xĩ 15 năm).

+ Tiền sử gia đình có CAD sớm: Định nghĩa là người nam có quan hệ họ hàng độ I mắc IHD trước tuổi 55 hoặc là nữ trước tuổi 65.

+ Béo phì, đặc biệt là béo trung tâm; chỉ số khối cơ thể mục tiêu giữa 18,5 và 24,9 kh/m2; và chu vi vòng eo mục tiêu là dưới 40 inches đối với nam và dưới 35 inches đối với nữ.

– Như năm 2013, AHA/ACC khuyến cáo đánh giá nguy cơ 10 năm bệnh tim mạch do xơ vữa (ASCVD) đối với bệnh nhân 40-79 tuổi sử dụng phương pháp thính toán mới theo tuổi và chủng tộc.

+ Tính toán nguy cơ ASCVD có sẵn

http://tools.cardiosource.org/ASCVD-Risk-Estimator/

+ Nếu có nguy cơ thấp nhưng vẫn không chắc chắn, thì CRP độ nhạy cao (nhiều hơn hoặc bằng 2 mg/dL), điểm vôi hóa động mạch vành (nhiều hơn hoặc bằng 300 đơn vị Agatston hoặc trên hoặc bằng bách phân vị thứ 75), chỉ số cổ chân-cánh tay (nhỏ hơn 0,9) có thể thu được để xem xét tăng nguy cơ.

+ Các yếu tố nguy cơ thông thường chú ý ở trên nên được đánh giá ở những bệnh nhân trẻ hơn 40 tuổi và mỗi 4-6 năm sau 40 tuổi; nguy cơ ASCVD 10 năm nên được tính toán mỗi 4-6 năm ở bệnh nhân 40-79 tuổi.

+ Nguy cơ suốt đời có thể được đánh giá sử dụng tính toán nguy cơ ASCVD và có thể giúp ích trong trường hợp tư vấn bệnh nhân về thay đổi lối sống.