CÁC BẠN TẢI SÁCH GỐC TIẾNG ANH GRAY’S ANATOMY FOR STUDENT 4E NỔI TIẾNG, CÙNG VỚI CÁC PHẦN MÌNH DỊCH Ở ĐÂY NHA: https://tailieuykhoamienphi.com/vung-bung-sau/

TĨNH MẠCH CHỦ DƯỚI

Tĩnh mạch chủ dưới đưa máu từ tất cả các cấu trúc bên dưới cơ hoành về nhĩ phải của tim. Nó được hình thành khi 2 tĩnh mạch mạch chậu chung hợp lại ở mức đốt sống LV, ngay bên phải đường giữa. Nó đi lên qua vùng bụng sau, trước cột sống ngay bên phải động mạch chủ bụng (Hình 4.166), tiếp tục hướng lên trên và rời khỏi bụng nhờ đâm xuyên qua trung tâm gân của cơ hoành  ở mức đốt sống TVIII.

Trong suốt chặng đi của nó, mặt trước của tĩnh mạch chủ dưới được bắt chéo bởi động mạch chậu chung bên phải, gốc của mạc treo tràng, động mạch tinh hoàn hay buồng trứng phải, phần dưới của tá tràng và đầu tụy, phần trên tá tràng, ống mật chủ, tĩnh mạch cửa và gan, những thành phần này che phủ và đôi khi che lấp hoàn toàn tĩnh mạch chủ dưới (Hình 4.166).

Các nhánh đổ về tĩnh mạch chủ dưới bao gồm:

– Các tĩnh mạch chậu chung

– Các tĩnh mạch thắt lưng

– Tĩnh mạch tinh hoàn hoặc buồng trứng phải

– Tĩnh mạch thận

– Tĩnh mạch thượng thận phải

– Tĩnh mạch dưới hoành

– Tĩnh mạch gan

Không có các nhánh đổ về từ các phần của đường tiêu hóa thuộc ổ bụng, lách, tụy hay túi mật, bởi vì các tĩnh mạch từ những cấu trúc này là thành phần của tĩnh mạch cửa, sẽ đi đầu tiên là qua gan.

Một trong các tĩnh mạch đề cập ở trên, tĩnh mạch thắt lưng thì khác thường trong các kết nối của nó và cần chú ý đặc biệt. Không phải tất cả các tĩnh mạch thắt lưng đều đổ trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới (Hình 4.167):

– Tĩnh mạch thắt lưng 5 thường đổ vào tĩnh mạch chậu thắt lưng, một nhánh của tĩnh mạch chậu chung.

– Các tĩnh mạch thắt lưng 3 và 4 thường đổ về tĩnh mạch chủ dưới.

– Các tĩnh mạch thắt lưng thứ nhất và thứ hai có thể đổ về tĩnh mạch thắt lưng lên.

Các tĩnh mạch thắt lưng lên thì dài, là các kênh tĩnh mạch thông nối giúp kết nối động mạch chậu chung, chậu thắt lưng và tĩnh mạch thắt lưng với tĩnh mạch đơn và tĩnh mạch bán đơn của lồng ngực (Hình 4.167).

Nếu tĩnh mạch chủ dưới bị block, thì các tĩnh mạch thắt lưng lên trở thành các kênh tĩnh mạch bàng hệ giữa các phần trên và dưới cơ thể.

HỆ THỐNG BẠCH HUYẾT

Dẫn dịch bạch huyết từ hầu hết các cấu trúc sâu và các vùng của cơ thể bên dưới cơ hoành hội tụ chủ yếu ở các tập hợp của hạch bạch huyết và mạch bạch huyết liên quan đến các mạch máu lớn của vùng bụng sau (Hình 4.168). Dịch bạch huyết sau đó chủ yếu đổ về ống ngực. Các kênh bạch huyết chính dẫn dịch bạch huyết từ các vùng khác nhau của cơ thể, toàn bộ được tổng hợp trong Bảng 4.4.

– Các hạch trước động mạch chủ và các hạch động mạch chủ ngoài hay các hạch thắt lưng (các hạch cạnh động mạch chủ).

Gần chỗ phân đôi của động mạch chủ, thì các tập hợp bạch huyết liên quan đến 2 động mạch và tĩnh mạch chậu chung trộn lẫn và nhiều nhóm hạch và mạch bạch huyết liên quan tới động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ dưới đi lên trên. Những tập hợp này có thể chia thành các hạch trước động mạch chủ, nằm phía trước động mạch chủ bụng và các hạch động mạch chủ bên trái và bên phải hay các hạch thắt lưng (các hạch cạnh động mạch chủ), nằm ở cả 2 bên của động mạch chủ bụng (Hình 4.168).

Khi những tập hợp bạch huyết này đi qua vùng bụng sau, thì chúng tiếp tục nhận bạch huyết từ các cấu trúc khác. Các hạch động mạch chủ ngoài hay các hạch thắt lưng (hạch cạnh động mạch chủ) nhận mạch bạch huyết từ thành cơ thể, thận, tuyến thượng thận và tinh hoàn hay buồng trứng.

Các hạch trước động mạch chủ được tổ chức quanh 3 nhánh trước của động mạch chủ bụng mà cấp máu cho phần bụng của ống tiêu hóa, cũng như lách, tụy, túi mật và gan. Chúng được chia thành các hạch tạng, mạc treo tràng trên và mạc treo tràng dưới và nhận mạch bạch huyết từ các cơ quan cấp máu bởi các động mạch cùng tên.

Cuối cùng, các hạch động mạch chủ ngoài hay các hạch thắt lưng hình thành các thân thắt lưng phải và trái, ngược lại thì các hạch trước động mạch chủ hình thành nên thân ruột (Hình 4.168). Những thân này hợp thành nên một chỗ giãn dạng hình túi (bể dưỡng trấp). Sự phình này của các thân bạch huyết nằm sau bên phải động mạch chủ bụng và phía trước các thân đốt sống LI và LII. Nó đánh dấu nơi khởi đầu của ống ngực.