
Trung thất trên nằm phía sau xương ức và phía trước các thân đốt sống của 4 đốt sống ngực đầu tiên.
– Giới hạn trên của nó là một mặt phẳng chếch đi từ khuyết cảnh lên trên và ra sau đến bờ trên của đốt sống TI.
– Phía dưới, giới hạn bởi một mặt phẳng ngang đi từ góc ức đến đĩa gian đốt sống TIV/V, chia nó với trung thất dưới.
– Phía hai bên, chúng được giới hạn bởi phần trung thất của màng phổi thành.
Trung thất trên liên tục với cổ ở phía trên và với trung thất dưới ở bên dưới.
Các cấu trúc chính được tìm thất trong trung thất trên (Hình 3.86 và 3.87) bao gồm:


– Tuyến ức
– Các tĩnh mạch cánh tay đầu phải và trái
– Tĩnh mạch gian sườn trên trái
– Tĩnh mạch chủ trên
– Cung động mạch chủ với 3 nhánh lớn của nó
– Khí quản
– Thực quản
– Các dây thần kinh hoành
– Các dây thần kinh lang thang
– Nhánh quặt ngược thanh quản của dầy thần kinh lang thang trái
– Ống ngực
– Những dây thần kinh, mạch máu và mạch bạch huyết nhỏ khác.
TUYẾN ỨC
Tuyến ức là thành phần trước nhất của trung thất trên, nằm ngay sau cán xương ức của xương ức. Nó là một cấu trúc không đối xứng và có hai thùy.
Phần mở lên trên của tuyến ức có thể đến vùng cổ và lên cao đến tuyến giáp; một phần dưới thường mở vào trung thất trước trên túi ngoại tâm mạc.
Liên quan đến sự phát triển ban đầu của hệ thống miễn dịch, tuyến ức là một cấu trúc lớn ở trẻ em, bắt đầu teo sau khi dậy thì và có thể thấy được sự thay đổi đáng kể về kích thước ở người lớn. Ở người lớn tuổi, hầu như không thể xác định nó như một cơ quan, vì chúng chứa chủ yếu là mô mỡ mà đôi khi chúng sắp xếp như một cấu trúc gồm 2 thùy mỡ.
Các động mạch chi phối tuyến ức bao gồm các nhánh nhỏ bắt nguồn từ các động mạch ngực trong. Dẫn máu tĩnh mạch thường đổ vào tĩnh mạch cánh tay đầu trái và có thể vào các tĩnh mạch ngực trong.
Dẫn dịch bạch huyết trở về nhiều nhóm hạch ở một hoặc nhiều vị trí sau:
– Dọc theo các động mạch ngực trong (hạch cạnh ức);
– Ở chỗ phân đôi của khí quản ( hạch khí phế quản); và
– Ở nền cổ
CÁC TĨNH MẠCH CÁNH TAY ĐẦU TRÁI VÀ PHẢI
Các tĩnh mạch cánh tay đầu trái và phải nằm ngay sau tuyến ức. Chúng hình thành ở mỗi bên tại vị trí nối giữa tĩnh mạch cảnh trong và tĩnh mạch dưới đòn (Hình 3.86). Tĩnh mạch cánh tay đầu trái đi qua đường giữa và hợp với tĩnh mạch cánh tay đầu trái thành tĩnh mạch chủ trên (Hình 3.88).

– Tĩnh mạch cánh tay đầu phải bắt đầu từ phía sau đầu trong của xương đòn phải và đi dọc xuống, hình thành nên tĩnh mạch chủ trên khi nó hợp với tĩnh mạch cánh tay đầu trái. Các tĩnh mạch đổ về bao gồm các tĩnh mạch đốt sống, tĩnh mạch gian sườn sau đầu tiên và các tĩnh mạch ngực trong và các tĩnh mạch tuyến ức cũng có thể đổ về.
– Tĩnh mạch cánh tay đầu trái bắt đầu phía sau đầu trong của xương đòn trái. Chúng đi về bên phải, di chuyển hơi xuống dưới và hợp với tĩnh mạch cánh tay đầu phải hình thành nên tĩnh mạch chủ trên phía sau bờ dưới của sụn sườn đầu tiên bên phải gần với bờ phải xương ức. Các tĩnh mạch đổ về bao gồm: tĩnh mạch đốt sống, tĩnh mạch gian sườn sau đầu tiên, tĩnh mạch gian sườn trên trái, tĩnh mạch tuyến ức dưới và các tĩnh mạch ngực trong. Nó cũng có thể nhận các tĩnh mạch tuyến ức và các tĩnh mạch màng ngoài tim. Tĩnh mạch cánh tay đầu trái đi qua đường giữa phía sau cán xương ức ở người trưởng thành. Ở trẻ sơ sinh và trẻ em, tĩnh mạch cánh tay đầu trái xuất phát phía trên bờ trên của cán xương ức và vì thế ít được bảo vệ hơn.