
Trung thất sau nằm sau túi ngoại tâm mạc và cơ hoành và nằm trước thân các đốt sống ngực giữa và dưới.
– Giới hạn trên của nó là một mặt phẳng ngang đi từ góc ức đến đĩa gian đốt sống giữa TIV và TV.
– Giới hạn dưới của nó là cơ hoành
– Phía bên ngoài nó được giới hạn bởi phần trung thất của màng phổi thành ở cả hai bên.
– Phía trên, nó liên tục với trung thất trên.
Các cấu trúc chính bên trong trng thất sau bao gồm:
– Thực quản và đám rối thần kinh liên quan của nó
– Động mạch chủ ngực và các nhánh của nó
– Hệ thống tĩnh mạch đơn
– Ống ngực và các hạch bạch huyết liên quan
– Các thân giao cảm
– Các dây thần kinh tạng ở ngực
THỰC QUẢN
Thực quản là một ống cơ nằm giữa thanh quản ở cổ và dạ dày ở bụng. Nó bắt đầu từ bờ dưới sụn nhẫn, đối diện đốt sống CVI và kết thúc ở tâm vị của dạ dày, đối diện đốt sống TXI.
Thực quản đi xuống trên mặt trước của các thân đốt sống, nhìn chung là nằm trên đường giữa khi chúng đi qua lông ngực (Hình 3.97). Khi nó tiếp cận cơ hoành, nó di chuyển ra trước và sang bên trái, băng từ phía bên phải động mạch chủ ngực cuối cùng đến vị trí trước động mạch. Nó sau đó đi qua lỗ thực quản, một lỗ trên phần cơ của cơ hoành, ở mức đốt sống TX.
Thực quản hơi có một đường cong trước ra sau song song với phần ngực của cột sống và được cố định phía trên bởi chỗ bám với thanh quản và phía dưới là chỗ bám với cơ hoành.

CÁC MỐI LIÊN HỆ VỚI CÁC CẤU TRÚC QUAN TRỌNG TRONG TRUNG THẤT SAU
Trong trung thất sau, thực quản liên quan đến một số các cấu trúc quan trọng. Phía bên phải được che phủ bởi phần trung thất của màng phổi thành.
Phía sau thực quản, ống ngực nằm phía bên phải ở phía dưới, nhưng bắt chéo qua bên trái ở đoạn cao hơn. Cũng phía bên trái thực quản là động mạch chủ ngực.
Phía trước thực quản, bên dưới mức chia đôi của khí quản, là động mạch phổi phải và phế quản chính trái. Thực quản sau đó đi ngay sau tâm nhĩ trái, phân tách giữa chúng chỉ bởi màng ngoài tim. Phía dưới so với nhĩ trái, thực quản liên quan với cơ hoành.
Các cấu trúc khác ngoài ống ngực phía sau thực quản bao gồm các thành phần tĩnh mạch bán đơn, các mạch máu gian sườn sau phải và gần cơ hoành là động mạch chủ ngực.
Thực quản là một ống cơ mềm có thể bị đè ép hay hẹp lại bởi các cấu trúc xung quanh tại 4 vị trí (Hình 3.98):
– Chỗ nối của thực quản với thanh quản ở cổ;
– Trong trung thất trên nơi thực quản bắt chéo qua bởi cung động mạch chủ;
– Trong trung thất sau nơi thực quản bị đè bởi phế quản chính trái;
– Trong trung thất sau ở lỗ thực quản trên cơ hoành.

Những chỗ hẹp này có ý nghĩa lâm sàng quan trọng. Ví dụ, một vật bị nuốt vào thì dường như sẽ bị kẹt lại ở các vị trí hẹp. Một chất ăn mòn khi ăn phải sẽ di chuyển chậm qua các chỗ hẹp, tạo ra nhiều tổn thương hơn ở những vị trí này hơn bất kì chỗ nào khác dọc theo thực quản. Cũng tương tự, các chỗ hẹp sẽ gây ra những vấn đề trong suốt quá trình đặt các dụng cụ y khoa.
ĐỘNG MẠCH CUNG CẤP, DẪN MÁU TĨNH MẠCH VÀ DẪN DỊCH BẠCH HUYẾT
Động mạch cung cấp và dẫn máu tĩnh mạch của thực quản trong trung thất sau liên quan đến nhiều mạch máu. Các động mạch thực quản xuất phát từ động mạch chủ ngực, các động mạch phế quản và các nhánh lên của động mạch vị trí ở bụng.
Dẫn máu tĩnh mạch liên quan đến các mạch máu nhỏ đổ về tĩnh mạch đơn, tĩnh mạch bán đơn và các nhánh thực quản đến tĩnh mạch vị trí ở bụng.
Dẫn dịch bạch huyết của thực quản trong trung thất sau đến trung thất sau và các hạch vị trái.
CHI PHỐI THẦN KINH
Chi phối thần kinh của thực quản, nhìn chung thì phức tạp. Các nhánh thực quản xuất phát từ các dây thần kinh lang thang và các thân giao cảm.
Các sợi cơ vân trong phần trên của thực quản nguồn gốc từ các cung chi trên và được chi phối bởi các sợi li tâm của chi trên từ các dây thần kinh lang thang.
Các sợi cơ trơn được chi phối bởi thành phần sọ não thuộc phần phó giao cảm của hệ thống thần kinh ngoại biên, các sợi li tâm thuộc tạng từ các dây thần kinh lang thang. Đây là những sợi trước hạch kết nối synap trong đám rối thần kinh cơ ruột và dưới niêm của hệ thống thần kinh ruột trong thành thực quản.
Chi phối cảm giác của thực quản liên quan đến các sợi hướng tâm từ các dây thần kinh lang thang, các thân giao cảm và các dây thần kinh tạng.
Các sợi hướng tâm của tạng từ các dây thần kinh lang thang liên quan đến sự truyền thông tin trở về hệ thống thần kinh trung ương về các quá trình sinh lí bình thường và các hoạt động phản xạ. Chúng không liên quan đến sự truyền thông tin nhận cảm đau.
Các sợi hướng tâm mà đi qua các thân giao cảm và các dây thần kinh tạng chủ yếu tham gia vào việc phát hiện đau ở thực quản và truyền thông tin này đến các mức khác nhau của hệ thống thần kinh trung ương.
ĐÁM RỐI THỰC QUẢN
Sau khi đi ra sau so với gốc phổi, các dây thần kinh lang thang phải và trái tiếp cận đến thực quản. Khi chúng đến thực quản, mỗi dây thần kinh chia thành một vài nhánh phủ thành phần này, hình thành nên đám rối thực quản (Hình 3.99). Có một vài các sợi hỗn hợp từ 2 dây thần kinh lang thang khi đám rối tiếp tục đi xuống dưới trên thực quản hướng đến cơ hoành. Ngay trên cơ hoành, các sợi của đám rối hợp lại để hình thành nên 2 thân:
– Thân lang thang trước ở mặt trước của thực quản, chủ yếu từ các sợi có nguồn gốc từ dây thần kinh lang thang trái;
– Thân lang thang sau trên mặt sau của thực quản, chủ yếu từ các sợi có nguồn gốc từ dây thần kinh lang thang phải.
Thân lang thang tiếp tục trên bề mặt thực quản khi nó đi qua cơ hoành vào bụng.

ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC
Phần ngực của động mạch chủ xuống (động mạch chủ ngực) bắt đầu từ bờ dưới của đốt sống TIV, nơi mà nó liên tục với cung động mạch chủ. Nó kết thúc phía trước bờ dưới của ssoots sống TXII, nơi mà nó đi qua lỗ động mạch chủ phía sau cơ hoành. Nằm phía bên trái của cột sống phía trên, tiếp cận đường giữa ở phía dưới, nằm ngay trước các thân đốt sống ngực dưới (Hình 3.101). Trong suốt chặng đi của nó, nó cho ra một số nhánh, được tổng hợp trong bảng 3.3.

Bảng 3.3 Các nhánh của động mạch chủ ngực | |
Các nhánh | Nơi xuất phát và chặng đi của mạch máu |
Các nhánh màng ngoài tim | Một vài mạch máu nhỏ đến mặt sau của túi ngoại tâm mạc |
Các nhánh phế quản | Thay đổi về số lượng, kích thước và nơi xuất phát – thường là hai động mạch phế quản trái từ động mạch chủ ngực và một động mạch phế quản phải từ động mạch gian sườn sau thứ ba hoặc động mạch phế quản trái trên |
Các nhánh thực quản | Bốn hoặc năm mạch máu từ phía trước của động mạch chủ ngực, hình thành nên một chuỗi thông nối liên tục – các sự thông nối bao gồm các nhánh thực quản của tuyến giáp dưới ở phía trên và các nhánh thực quản của các động mạch hoành trái dưới và động mạch vị trái ở phía dưới |
Các nhánh trung thất | Một vài nhánh nhỏ cung cấp cho các hạch bạch huyết, mạch máu, dây thần kinh và mô thưa ở trung thất sau |
Các động mạch gian sườn sau | Thông thường, 9 cặp mạch máu phân ra từ mặt sau của động mạch chủ ngực – thường cấp máu cho 9 khoang gian sườn dưới (2 khoang đầu tiên được cấp máu bởi động mạch gian sườn trên cùng – một nhánh của thân cổ – sườn) |
Các động mạch hoành trên | Các mạch máu nhỏ từ phần dưới của động mạch chủ ngực cấp máu cho phần sau của mặt trên cơ hoành – chúng thông nối với các động mạch cơ hoành và động mạch hoành – màng ngoài tim. |
Động mạch dưới sườn | Cặp nhánh dưới cùng của động mạch chủ ngực nằm dưới xương sườn XII |