HỆ THỐNG CÁC TĨNH MẠCH ĐƠN

Hệ thống các tĩnh mạch đơn bao gồm một chuỗi các mạch máu nằm dọc mỗi bên cơ thể giúp dẫn máu từ thành cơ thể và đưa máu lên trên đổ vào tĩnh mạch chủ trên. Máu từ một vài tạng tại ngực cũng có thể đi vào hệ thống và có thông nối với các tĩnh mạch ở bụng.

Các mạch máu dọc có thể hoặc không liên tục và được kết nối với nhau từ bên này qua bên kia ở các vị trí khác nhau trong suốt chặng đi của nó (Hình 3.102).

Hệ thống các tĩnh mạch đơn đóng vai trò như một đường thông nối quan trọng cho phép máu đổ về từ phần dưới của cơ thể đến tim nếu tĩnh mạch chủ dưới bị tắc nghẽn lại.

Các tĩnh mạch chủ yếu trong hệ thống này là:

– Tĩnh mạch đơn, bên phải

– Tĩnh mạch bán đơn và tĩnh mạch bán đơn phụ phía bên trái.

Có sự biến đổi đáng kể về xuất phát, đường đi, phân nhánh, thông nối và tận cùng của những mạch máu này.

TĨNH MẠCH ĐƠN

Tĩnh mạch đơn xuất phát tại chỗ nối giữa tĩnh mạch thắt lưng lên trái và tĩnh mạch dưới sườn trái (Hình 3.102). Nó cũng có thể xuất phát như một nhánh trực tiếp của tĩnh mạch chủ dưới, đổ về tĩnh mạch chủ dưới bởi một thân chung hợp bởi tĩnh mạch thắt lưng lên phải và tĩnh mạch dưới sườn phải.

Tĩnh mạch đơn đi vào lồng ngực qua lỗ động mạch chủ trên cơ hoành hoặc nó đi qua hoặc sau trụ phải của cơ hoành. Nó đi lên qua trung thất sau, thường phía bên phải ống ngực. Ở gần mức đốt sống TIV, nó vòng cung ra trước, trên gốc phổi phải để hợp với tĩnh mạch chủ trên trước khi đi vào túi ngoại tâm mạc.

Các nhánh của tĩnh mạch đơn bao gồm:

– Tĩnh mạch gian sườn trên phải (một mạch máu duy nhất tạo bởi các tĩnh mạch gian sườn hai, ba và bốn)

– Các tĩnh mạch gian sườn sau phải từ 5 đến 11

– Tĩnh mạch bán đơn

– Tĩnh mạch bán đơn phụ

– Các tĩnh mạch thực quản

– Các tĩnh mạch trung thất

– Các tĩnh mạch màng ngoài tim

– Các tĩnh mạch phế quản phải.

TĨNH MẠCH BÁN ĐƠN

Tĩnh mạch bán đơn (tĩnh mạch bán đơn dưới) thường xuất phát từ vị trí nối giữa tĩnh mạch thắt lưng trái lên và tĩnh mạch dưới sườn trái (Hình 3.102). ó cũng có thể xuất phát từ chỉ một trong hai tĩnh mạch này và thường có kết nối với động mạch thận trái.

Tĩnh mạch bán đơn thường đi vào lồng ngực qua trụ trái của cơ hoành, nhưng có thể đi vào qua lỗ động mạch chủ. Nó đi lên qua trung thất sau, phía bên trái, đến xấp xĩ mức đốt sống TIX. Ở tại đây, nó băng ngang qua cột sống, phía sau động mạch chủ ngực, thực quản và ống ngực dể đi vào tĩnh mạch đơn.

Các nhánh đổ về tĩnh mạch bán đơn bao gồm:

– Bốn hoặc năm tĩnh mạch gian sườn sau trái dưới cùng

– Các tĩnh mạch thực quản

– Các tĩnh mạch trung thất.

TĨNH MẠCH BÁN ĐƠN PHỤ

 Tĩnh mạch bán đơn phụ (tĩnh mạch bán đơn trên) đi xuống ở phía bên trái từ phần trên của trung thất sau đến gần mức đốt sống VIII (Hình 3.102). Ở vị trí này, nó đi ngang qua cột sống để hợp với tĩnh mạch đơn hoặc tận cùng vào tĩnh mạch bán đơn hoặc có kết nối với cả hai tĩnh mạch. Thường thì nó có kết nối phía trên với tĩnh mạch gian sườn trên trái.

Các mạch máu mà đổ về tĩnh mạch bán đơn phụ bao gồm:

– Các tĩnh mạch gian sườn sau trái từ 4 đến 8

– Đôi khi, các tĩnh mạch phế quản trái.

ỐNG NGỰC TRONG TRUNG THẤT SAU

Ống ngực là kênh chủ yếu mà qua đó dịch bạch huyết từ hầu hết cơ thể trở về hệ thống tĩnh mạch. Nó bắt đầu như một chỗ hội lưu của các thân bạch huyết ở bụng, đôi khi hình thành nên một chỗ giãn giống túi được gọi là bể dưỡng trấp, dẫn dịch bạch huyết từ các tạng ổ bụng, thành bụng, vùng chậu, đáy chậu và chi dưới.

Ống ngực bắt đầu từ đốt sống LII đến nền cổ.

Đi vào lồng ngực, phía sau động mạch chủ, qua lỗ động mạch chủ của cơ hoành, ống ngực đi lên qua trung thất sau đến bên phải đường giữa giữa động mạch chủ ngực bên trái và tĩnh mạch đơn bên phải (Hình 3.103). Nó nằm phía sau so với cơ hoành và thực quản và phía trước thân các đốt sống.

Ở mức đốt sống TV, ống ngực di chuyển san bên trái đường giữa và đi vào trung thất trên. Nó tiếp tục qua trung thất trên đi vào nền cổ.

Sau khi đổ về bởi, trong hầu hết các trường hợp là thân cảnh trái, dẫn máu phía bên trái của đầu, cổ và thân dưới đòn trái, dẫn dịch bạch huyết phần chi trên trái, thì ống ngực đổ về chỗ nối giữa các tĩnh mạch dưới đòn trái và tĩnh mạch cảnh trong trái.

Ống ngực thường nhận dịch bạch huyết từ:

– Hội lưu các thân bạch huyết vùng bụng

– Các thân bạch huyết ngực xuống dẫn dịch bạch huyết của 6 hoặc 7 khoang gian sườn dưới ở cả hai bên

– Các thân bạch huyết gian sườn trên dẫn dịch bạch huyết của 5 hoặc 6 khoang gian sườn trên trái

– Các ống tù các hạch trung thất sau

– Các ống từ các hạch hoành sau.

CÁC THÂN GIAO CẢM

Các thân giao cảm là một thành phần quan trọng của phần giao cảm của thành phần thần kinh tự động của hệ thống thần kinh ngoại vi và thường xem như là thành phần của trung thất sau khi chúng đi qua lồng ngực.

Phần này của thân giao cảm bao gồm 2 dây song song gồm 11 hoặc 12 hạch giao cảm (Hình 3.104).

Hạch giao cảm được kết nối với các dây thần kinh gai sống lân cận bằng các nhánh trắng và nhánh xám và đánh số theo dây thần kinh gai sống ngực mà chúng liên quan.

Trong phần trên của trung thất sau, các thân giao cảm phía trước cổ các xương sườn. Phía dưới, chúng đi vào trong hơn cho đến khi nằm ở ngay phía ngoài của thân các đốt sống. Các thân giao cảm rời lồng ngực nhờ đi ra sau so với cơ hoành dưới dây chằng cung trong hoặc qua trụ của cơ hoành. Trong suốt chặng đi của nó các thân giao cảm được che phủ bởi màng phổi thành.

CÁC NHÁNH TỪ HẠCH

Hai loại nhánh được tách ra rừ hạch:

– Loại thứ nhất bao gồm các nhánh từ 5 hạch trên

– Loại thứ hai bao gồm các nhánh từ 7 hạch dưới.

Loại thứ nhất, bao gồm các nhánh từ 5 hạch trên, bao gồm chủ yếu các sợi sau hạch giao cảm, chi phối cho các tạng khác nhau ở ngực. Những nhánh này tương đối nhỏ và cũng chứa các sợi hướng tâm của tạng.

 Loại thứ hai, bao gồm các nhánh từ 7 hạch dưới, bao gồm chủ yếu các sợi trước hạch giao cảm, chi phối cho các tạng bụng và chậu khác nhau. Những nhánh này lớn, cũng mang các sợi hướng tâm của tạng và hình thành nên 3 dây thần kinh tạng của ngực được gọi là các dây thần kinh ngực lớn, bé và bé nhất (Hình 3.104).

– Dây thần kinh tạng lớn ở mỗi bên thường xuất phát từ các hạch ngực 5 đến 9 hoặc 10. Nó đi xuống qua thân đốt sống, di chuyển hướng vào trong và đi vào vùng bụng qua trụ cơ hoành để kết thúc ở hạch tạng.

– Dây thần kinh tạng bé thường xuất phát từ hạch ngực 9 và 10 hoặc 10 và 11. Nó đi xuống qua thân các đốt sống di chuyển hướng vào trong và đi vào ổ bụng qua trụ cơ hoành để kết thúc ở hạch động mạch chủ – thận.

– Dây thần kinh tạng bé nhất (dây thần kinh tạng dưới cùng) thường xuất phát từ hạch ngực 12. Nó đi xuống và đi vào trong ổ bụng qua trụ cơ hoành để kết thúc tại đám rối thận.