Sẽ không cần quá nhiều thời gian để sinh viên Y khoa trên toàn thế giới nhận ra một điều hiển nhiên rằng không có cuốn sách nào có thể lấn lướt Gray’s Anatomy for Students. Chỉ trong ấn bản thứ tư của nó, tài liệu tham khảo hướng trọng tâm vào lâm sàng này đã vượt xa mọi đối thủ và đã được khuyên dùng bởi bất cứ ai đã từng sử dụng nó. 

Một đội ngũ các tác giả với kinh nghiệm rộng lớn trong việc giảng dạy và thực hành lâm sàng đã cập nhật và xem xét lại một cách sâu rộng cuốn sách này để bao quát hiệu quả những gì bạn đang được học trong các lớp học giải phẫu học đương đại. Một định dạng được cải tiến, các thông tin lâm sàng được cập nhật, và các bản vẽ đáng kinh ngạc được sáng tác bởi họa sĩ Richard Tibbitts và Paul Richardson làm cho giải phẫu học dễ dàng để bạn nắm bắt hơn bao giờ hết. Bao quát độc đáo về giải phẫu bề mặt, các hình ảnh chẩn đoán liên quan, và các tình huống lâm sàng minh họa các ứng dụng thực tế của các khái niệm về giải phẫu học. Và, một hội đồng tư vấn quốc tế, bao gồm hơn 100 nhà hướng dẫn, đảm bảo rằng các thông tin được đưa ra trong sách là chính xác, cập nhật và dễ sử dụng. 

Để tăng cường hơn nữa trải nghiệm học tập của bạn, bạn sẽ có thể truy cập toàn bộ nội dung cuốn sách trực tuyến, với các nội dung bổ sung, các bài tập mang tính tương tác và nhiều thứ hữu ích khác.

Vai trò chức năng của Gan Phòng khám Đông y Phúc Thành

GAN

Gan là tạng lớn nhất trong cơ thể và nằm chủ yếu ở hạ sườn phải và vùng thượng vị, mở rộng vào vùng hạ sườn trái (hay trong vùng phần tư trên phải, mở rộng vào vùng phần tư trên trái) (Hình 4.101).

Bề mặt gan bào gồm:

– Mặt hoành (diaphragmatic surface) ở các phía trên, trước và dưới

– Mặt tạng ở phía dưới (Hình 4.102)

1) Mặt hoành

Mặt hoành của gan trơn láng và có hình vòm, nằm ngay mặt dưới cơ hoành (Hình 4.103). Liên quan với chúng là các túi thừa dưới hoành và túi thừa gan-thận (Hình 4.102):

– Túi thừa dưới hoành (subphrenic recess) chia mặt hoành của gan khỏi cơ hoành và được chia thành hai vùng trái và phải bởi dây chằng lược (falciform ligament), một cấu trúc có nguồn gốc từ mạc nối bụng trong thời kì phôi thai.

– Túi thừa gan thận là một phần của khoang phúc mạc, nằm phía bên phải giữa gan và thận phải, tuyến thượng thận phải.

Các túi thừa dưới hoành và túi thừa gan thận liên tục nhau ở phía trước.

2) Mặt tạng

Mặt tạng của gan được phủ bởi phúc mạc tạng trừ hố túi mật và cửa gan (porta hepatis) (đường vào gan; hình 4.104) và các cấu trúc liên quan sau (Hình 4.105):

– Thực quản

– Phần bên phải mặt trước dạ dày

– Phần trên của tá tràng

– Mạc nối nhỏ

– Túi mật

– Góc đại tràng phải

– Phần bên phải đại tràng ngang

– Thận phải

– Tuyến thượng thận phải.

Cửa gan đóng vai trò như là một vùng đi vào gan của động mạch gan và tĩnh mạch gan, cũng là vùng đi ra của các ống gan (Hình 4.104).

3) Các dây chằng liên quan

Gan bám được nối vào thành bụng trước nhờ dây chằng lược (falciform ligament) và trừ một vùng nhỏ của gan ngay dưới cơ hoành (vùng trống (bare area)), gan hầu như được bao phủ hoàn toàn bởi phúc mạc tạng (Hình 4.105). Các dây chằng nối gan với dạ dày (dây chằng gan-vị (hepatogastric ligament)), với tá tràng (dây chằng gan tá tràng (hepatoduodenal ligament)), với cơ hoành (dây chằng tam giác phải và trái; dây chằng vành trước và sau (right and left triangular ligament; anterior and posterior coronary ligament)).

Vùng trống của gan là một phần của gan trên bề mặt cơ hoành  và không có phúc mạc chen giữa gan và cơ hoành (Hình 4.105):

– Giới hạn trước của vùng trống là vị trí bắt đầu lật lên của phúc mạc khỏi gan lên cơ hoành – dây chằng vành trước (anterior coronary ligament)

– Giới hạn sau của vùng trống là vị trí lật lên của phúc mạc – dây chằng vành sau (posterior coronary ligament)

– Nơi dây chằng vành phải và trái kết hợp lại với nhau hai bên tạo thành dây chằng tam giác phải và trái.

3) Các thùy gan

Gan được chia thành thùy phải và trái bởi dây chằng lược ở phía trước và trên; rãnh dây chằng tĩnh mạch (ligamentum venosum) và dây chằng tròn (ligamentum teres) ở mặt tạng. (Hình 4.104). Thùy phải của gan là thùy lớn nhất, ngược lại thùy trái của gan là thùy nhỏ hơn. Thùy vuông (quadrate lobe) và thùy đuôi (caudate lobe) được mô tả như là xuất phát từ thùy phải về mặt giải phẫu nhưng phân biệt về mạt chức năng.

– Thùy vuông được nhìn thấy ở phía trước mặt tạng của gan và được giới hạn phía bên trái bới rãnh dây chằng tròn và bên phải bởi hố túi mật. Về mặt chức năng, nó liên quan đến thùy trái của gan.

– Thùy đuôi được tìm thấy ở phía sau mặt tạng của gan. Nó được giới hạn phía bên trái bởi rãnh dây chằng tĩnh mạch và bên phải bởi hố tĩnh mạch chủ dưới. Về mặt chức năng, nó riêng biệt với thùy trái và thùy phải của gan.

Động mạch cung cấp máu cho gan bao gồm:

– Động mạch gan phải (right hepatic artery) xuất phát từ động mạch gan riêng (hepatic artery proper) (một nhánh của động mạch gan chung (common hepatic artery) từ thân tạng (celiac trunk))

– Động mạch gan trái xuất phát từ động mạch gan riêng (một nhánh của động mạch gan chung từ động mạch thân tạng).

4) Túi mật

Túi mật (gallbladder) là một túi hình lê nằm ở mặt tạng của thùy phải gan trong một hố giữa thùy phải và thùy vuông của gan (Hình 4.104). Chúng gồm:

– Một đầu tròn (đáy túi mật (fundus)), có thể nhô ra từ bờ dưới của gan:

– Một phần lớn nằm trong hố túi mật (thân túi mật (body)), có thể nằm ngay trên đại tràng ngang và phần trên của tá tràng

– Một phần hẹp (cổ túi mật (neck))

Động mạch cấp máu cho túi mật là động mạch túi mật từ động mạch gan phải (một nhánh động mạch gan riêng) (Hình 4.106)

Túi mật nhận, cô đặc và tích trữ mật từ gan.