
CÁC BẠN TẢI LINK SÁCH GIẢI PHẪU DÀNH CHO SINH VIÊN NỔI TIẾNG VÀ CÁC PHẦN MÌNH DỊCH Ỏ ĐÂY NHA: https://tailieuykhoamienphi.com/cac-tang-trong-o-bung/
DẪN MÁU TĨNH MẠCH
Dẫn máu tĩnh mạch của lách, tụy, túi mật và phần bụng của ống tiêu hóa, trừ phần dưới của trực tràng, qua hệ thống tĩnh mạch cửa, dẫn máu từ những cấu trúc này đến gan. Một khi máu đi qua xoang gan, sau đó nó sẽ dần dần đến những tĩnh mạch lớn hơn cho đến khi nó đi vào các tĩnh mạch gan, từ đây nó đổ vào tĩnh mạch chủ dưới ngay dưới cơ hoành.
– Tĩnh mạch cửa:
Tĩnh mạch cửa là con đường chung cuối cùng để vận chuyển máu tĩnh mạch từ lách, tụy, túi mật và phần bụng của ống tiêu hóa. Nó được tạo thành nhờ sự kết hợp của tĩnh mạch lách và tĩnh mạch mạc treo tràng trên nằm ở phía sau cổ tụy ở mức đốt sống LII (Hình 4.131).

Khi đi lên hướng về phía gan thì tĩnh mạch cửa đi sau phần trên của tá tràng và đi vào bờ phải của mạc nối nhỏ. Khi nó đi qua phần này của mạc nối nhỏ, thì nó nằm phía trước lỗ mạc nối và phía sau cả ống mật chủ, thành phần mà nằm hơi bên phải của tĩnh mạch cửa và động mạch gan riêng, thành phần mà nằm hơi bên trái của tĩnh mạch cửa.
Khi tiệm cận đến gan thì tĩnh mạch cửa chia thành các nhánh phải và trái, sau đó đi vào nhu mô gan. Các tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch cửa bao gồm:
+ Các tĩnh mạch vị trái và vị phải dẫn máu từ đường cong bé của dạ dày và thực quản đoạn bụng
+ Các tĩnh mạch túi mật từ túi mật
+ Các tĩnh mạch quanh rốn, liên quan đến tĩnh mạch rốn đã mất đi và nối với các tĩnh mạch trên thành bụng trước.
– Tĩnh mạch lách:
Tĩnh mạch lách hình thành từ nhiều mạch máu nhỏ hơn xuất phát từ rốn lách (Hình 4.132). Tĩnh mạch lách đi sang bên phải, đi qua dây chằng lách thận cùng với động mạch lách và đuôi tụy. Tiếp tục đi sang bên phải, tĩnh mạch lách to, thẳng liên quan đến thân tụy khi nó đi qua thành bụng sau. Phía sau cổ tụy thì tĩnh mạch lách kết hợp với tĩnh mạch mạc treo tràng trên để hình thành nên tĩnh mạch cửa.

Các tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch lách bao gồm:
+ Các tĩnh mạch vị ngắn
+ Tĩnh mạch vị mạc nối trái từ đường cong lớn của dạ dày
+ Các tĩnh mạch của tụy dẫn máu từ thân và đuôi tụy
+ Thường có cả tĩnh mạch mạc treo tràng dưới.
– Tĩnh mạch mạc treo tràng trên:
Tĩnh mạch mạc treo tràng trên dẫn máu từ ruột non, manh tràng, kết tràng lên và kết tràng ngang (Hình 4.132). Nó bắt đầu ở hố chậu phải nhờ các tĩnh mạch dẫn máu từ vùng tận cùng hồi tràng, manh tràng và ruột thừa hợp lại và đi lên trong mạc treo ruột ở bên phải của động mạch mạc treo tràng trên.
Phía sau cổ tụy thì tĩnh mạch mạc treo tràng trên hợp với tĩnh mạch lách để hình thành nên tĩnh mạch cửa.
Một tĩnh mạch tương ứng với mỗi nhánh của động mạch mạc treo tràng trên, dẫn máu về tĩnh mạch mạc treo tràng trên bao gồm các tĩnh mạch hồi tràng, hỗng tràng, hồi kết tràng, kết tràng phải và kết tràng giữa. Các nhánh tĩnh mạch đổ về khác gồm:
+ Tĩnh mạch vị mạc nối phải, dẫn máu phần bên phải của đường cong lớn dạ dày
+ Các tĩnh mạch tụy tá tràng trước dưới và sau dưới, chúng đi bên cạnh các động mạch cùng tên; tĩnh mạch tụy tá tràng trước trên thường dẫn máu đổ về tĩnh mạch vị mạc nối phải và tĩnh mạch tụy tá tràng sau trên thường đổ máu trực tiếp về tĩnh mạch cửa.
– Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới:
Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới dẫn máu từ trực tràng, kết tràng sigma, kết tràng xuống và góc lách (Hình 4.132). Nó bắt đầu như một tĩnh mạch trực tràng trên và đi lên, nhận các nhánh từ các tĩnh mạch sigma và tĩnh mạch kết tràng trái. Tất cả những tĩnh mạch này đi kèm theo các động mạch cùng tên. Tiếp tục đi lên, tĩnh mạch mạc treo tràng dưới đi phía sau thân tụy và thường hợp với tĩnh mạch lách. Đôi khi, nó kết thúc tại chỗ nối giữa các tĩnh mạch lách và tĩnh mạch mạc treo tràng trên hoặc hợp với tĩnh mạch mạc treo tràng trên.